Gần đây, trên trang web của Hiệp hội Sắn Việt Nam có những thông tin đáng lưu tâm: Do khủng hoảng kinh tế thế giới và sự trì trệ của ngành ethanol tại Trung Quốc, gần 70% nhà máy sản xuất cồn tại Trung Quốc đã đóng cửa, số còn lại giảm công suất, nên nhu cầu nguyên liệu sắn giảm rất mạnh.
Ở trong nước, sắn tiêu thụ nội địa chậm do thức ăn gia súc bán chậm, phần lớn các nhà máy sản xuất ethanol đóng cửa, chỉ có nhà máy Dung Quất đang hoạt động cầm chừng...
Đáng chú ý, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn, chỉ sau Thái Lan, song, hiện Trung Quốc chiếm tới 85% lượng sắn xuất khẩu của Việt Nam. Những thị trường như Nhật, Hàn Quốc, Nga rất khó tính, đòi hỏi chất lượng cao và nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm, sắn Việt Nam chưa đáp ứng được. Và, hệ lụy đã nhãn tiền.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2013, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn xấp xỉ 3,1 triệu tấn, kim ngạch 1,1 tỷ USD, giảm 26,8% về lượng và giảm 19,2% về kim ngạch so với năm 2012; 8 tháng đầu năm 2014, xuất hơn 2,2 triệu tấn, kim ngạch 739 triệu USD, cả lượng và kim ngạch đều giảm so với cùng kỳ năm 2013.
Tồn kho sắn lát và tinh bột sắn không nhỏ, nhiều doanh nghiệp phải bán với giá thấp, chịu lỗ nặng. Đã có không ít bài báo nói về sự “chết đứng” của cây sắn tương tự nhiều nhóm hàng nông sản khác khi Trung Quốc giảm nhập khẩu.
Bên cạnh sự sụt giảm xuất khẩu, có một thực tế khác không thể bàng quan: Diện tích trồng sắn phát triển “bùng nổ”, phá vỡ quy hoạch.
Diện tích trồng sắn của cả nước khoảng 560 nghìn ha. Hầu hết các tỉnh ở Tây Nguyên đều có diện tích sắn trồng vượt quy hoạch. Ví dụ: Đăk Lăk năm 2010 có 27.500ha, đến đầu năm 2014 đã vọt lên 35.000 ha, trong khi quy hoạch chỉ có 15.000 ha. Tại tỉnh Kon Tum, năm 2013 quy hoạch 28.000 ha, nhưng con số thực tế lên đến 34.000 ha; chỉ tính riêng 4 tháng đầu năm 2014, nông dân đã trồng 29.000 ha sắn...
Tổng sản lượng sắn cả nước hiện tới gần 9,4 triệu tấn (đứng thứ 10 trong số các quốc gia có năng suất sắn cao). Theo tính toán, 30% sản lượng phục vụ nhu cầu trong nước (làm lương thực, chế biến thức ăn chăn nuôi, công nghiệp dược phẩm, làm nguyên liệu sản xuất xăng sinh học, cồn công nghiệp...), 70% xuất khẩu dưới dạng tinh bột hoặc sắn lát khô. Chỉ riêng con số 70% sản lượng sắn dành cho xuất khẩu đã cho thấy nghịch lý thực tế: Làm nhiều - xuất ít, một nửa lượng sắn làm ra đi đâu?
Lối thoát cho củ sắn Việt Nam, cả xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, còn nhiều gập ghềnh, cam go nếu không giải quyết được 3 vấn đề: Quy hoạch- chất lượng- sản xuất, tiêu thụ thức ăn chăn nuôi, xăng sinh học trong nước.
Trần Phương/ Báo Công Thương
Không có nhận xét nào: