Nâng cao chất lượng nông sản, ứng phó với biến đổi khí hậu là những vấn đề nóng đặt ra đối với ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay, đặc biệt khi thị trường nông sản Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu với thế giới và diễn biến khí hậu ngày một phức tạp.
Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Trịnh Khắc Quang (Ảnh: BT)
Để làm rõ vấn đề này, phóng viên (PV) Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Phó Giám đốc (PGĐ) Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Trịnh Khắc Quang.
Thưa ông, Việt Nam đang tham gia đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) với mức thuế nhập khẩu và xuất khẩu hướng tới 0%. Vậy, về phía Viện đã có những chuẩn bị gì nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam khi mặt hàng nông sản các nước khác ồ ạt tràn sang?
- Khi Việt Nam tham gia Hiệp định TPP, thuế nhập khẩu và xuất khẩu của các nước tham gia Hiệp định sẽ bằng 0%. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Về cơ hội, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, có thế mạnh của Việt Nam vào một số thị trường quen thuộc như: Nhật Bản, Mỹ. Về thách thức, chúng ta sẽ bị cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước bởi một số nước có nền nông nghiệp phát triển như: Australia, Newzealand,…
Về phía Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam, Viện đã xác định một số ngành hàng chủ lực cần được ưu tiên trong nghiên cứu như: lúa gạo, ngô, cà phê, chè, cao su, điều, tiêu, rau, quả.
Các nghiên cứu tập trung vào việc chọn tạo giống có chất lượng tốt, có khả năng chống chịu với sâu bệnh và biến đổi khí hậu. Về kỹ thuật canh tác, tập trung vào nghiên cứu các giải pháp canh tác bền vững, nâng cao chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đến thời điểm hiện tại, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ giao một số nhiệm vụ phục vụ tái cơ cấu ngành và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam như: đề án phát triển sản phẩm lúa gạo Việt Nam chất lượng cao; đề án phát triển sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu; nghiên cứu chọn tạo và sản xuất giống điều; nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ tái canh cây cà phê,…
Nhằm triển khai các đề tài, dự án hiệu quả, Viện đang phối hợp chặt chẽ với các địa phương, doanh nghiệp để phát triển các ngành hàng theo chuỗi giá trị. Trên cơ sở đó, đã có hơn 30 giống cây trồng mới đạt chất lượng cao được bán bản quyền cho các doanh nghiệp (19 giống lúa thuần, 2 giống lúa lai, 8 giống ngô và 1 giống lạc), minh chứng cho sự liên kết giữa khoa học và sản xuất trong nông nghiệp.
Thưa ông, khó khăn nhất của nông sản Việt Nam hiện nay là thị trường đầu ra. Trong đó, vấn đề chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản ảnh hưởng rất lớn đến điều này. Vậy, Viện có những chiến lược gì nhằm giải quyết bài toán về việc nâng cao chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của nông sản Việt Nam?.
- Để sản xuất ra sản phẩm an toàn, Quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP) đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành tháng 1 năm 2008 cho sản phẩm rau quả tươi. Đến năm 2010, đã có thêm VietGAP cho các sản phẩm chè búp tươi, lúa và cà phê. Tuy nhiên, do quy trình áp dụng theo VietGAP khá dài và phức tạp; chi phí sản xuất lớn, trong khi giá bán sản phẩm VietGAP cao hơn sản phẩm thông thường không đáng kể nên tính đến tháng 12/2013, tổng diện tích cây trồng sản xuất theo VietGAP và theo hướng VietGAP vẫn ở con số dưới 1% trong tổng số diện tích 5 loại cây trồng được ban hành theo VietGAP.
Để khắc phục những vấn đề này, các chuyên gia của Viện cùng các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành văn bản quản lý “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với rau, quả, chè búp tươi đủ điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất, sơ chế” (QCVN 01-132:2013/BNNPTNT). Song song với đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đang tiến hành xây dựng “Quy trình thực hành nông nghiệp tốt cho rau, quả và chè búp tươi an toàn” phiên bản 2.
Về kỹ thuật sản xuất an toàn theo VietGAP, Viện đã và đang có một số đề tài, dự án hợp tác với Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc (FAO), Trung tâm rau Thế giới (AVRDC), Tổng cục Phát triển Nông thôn Hàn Quốc (RDA),… với các nội dung nghiên cứu như: hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu bệnh độc hại; tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, các chế phẩm sinh học trong bảo vệ thực vật; sử dụng phương pháp sơ chế, bảo quản trong quá trình vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó, được biết, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu toàn cầu (thiên tai lũ lụt, hạn hán, lốc xoáy,...). Vậy trong vấn đề này, Viện có biện pháp gì về giống, phân bón, cách chăm sóc cây trồng để ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu?.
- Nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu trong sản xuất của ngành trồng trọt, Viện xác định ưu tiên nghiên cứu 2 nội dung: chọn tạo giống cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu và biện pháp kỹ thuật canh tác ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về chọn tạo giống, Viện đã tiến hành thu thập khá đầy đủ nguồn gen cây trồng mang đặc tính chống chịu nóng, lạnh, úng, hạn, mặn, phèn, chống chịu sâu bệnh. Cụ thể, Viện đã nghiên cứu được giống lúa chống chịu úng, hạn, mặn, phèn, sâu bệnh; giống ngô chịu hạn. Về cây ăn quả, đã có giống gốc ghép cây có múi chịu hạn, ngập úng, mặn để làm gốc ghép cho cam và bưởi. Bên cạnh đó, Viện cũng đã tuyển chọn được giống cao su có khả năng chịu lạnh thích hợp cho một số tỉnh miền núi phía Bắc; một số giống rau gốc ghép cho cây cà chua chống chịu được mưa úng và bệnh héo xanh vi khuẩn,…
Về biện pháp kỹ thuật canh tác, Viện đã tổ chức áp dụng việc sử dụng giống lúa ngắn ngày, bố trí thời vụ né tránh lũ lụt ở một số tỉnh miền Trung; sử dụng biện pháp kỹ thuật che phủ đất trong bằng xác thực vật hoặc trồng cây lạc lưu niên có tác dụng giảm bốc hơi nước, giảm xói mòn đất, tăng năng suất cây trồng.
Vậy, trong tương lai, Viện có kế hoạch và kiến nghị gì nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp Việt Nam?.
- Nhằm nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã xác định một số nội dung cần tập trung triển khai. Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu xác định giống cây trồng từ sử dụng giống có năng suất, chất lượng thấp, chống chịu kém sang giống có năng suất, chất lượng cao và tính chống chịu với điều kiện tự nhiên tốt.
Thứ hai, về chuyển đổi cơ cấu loài cây trồng, Viện đang tiến hành một số đề tài, dự án chuyển đổi từ đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng một số cây khác. Tiêu biểu như: mô hình trồng hoa cho thu nhập từ 500 triệu – 1 tỷ đồng/ha/năm, trồng cây ăn quả cho thu nhập từ 200-300 triệu đồng/ha/năm, trồng rau cho thu nhập từ 200 triệu đồng/ha/năm từ đất trồng lúa cho thu nhập bình quân khoảng 50-70 triệu đồng/ha/năm.
Thứ ba là giảm vật tư đầu vào, hiện, nước ta sử dụng khoảng 8 triệu tấn phân bón vô cơ các loại hằng năm với hiệu suất sử dụng từ 50-70%. Đây là việc lãng phí rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Hiện tại, Viện đang đề xuất một số nội dung nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón lên từ 10-15%.
Thứ tư, về lĩnh vực nghiên cứu thị trường, tuy đã đạt được một số kết quả nhưng nhìn chung công tác này vẫn còn hạn chế. Đặc biệt về việc nghiên cứu thị trường nông sản Trung Quốc. Hằng năm chúng ta vẫn gặp khó khăn trong việc xuất nông sản sang thị trường này. Theo quan điểm của chúng tôi, đã đến lúc chúng ta cần có một nội dung nghiên cứu toàn diện về thị trường nông sản Trung Quốc. Nghiên cứu này sẽ cung cấp được nhu cầu số lượng, chất lượng, thời điểm cung cấp, cơ chế chính sách của Trung Quốc đối với việc nhập khẩu nông sản của Việt Nam. Thông qua đó, nắm rõ được nhu cầu của thị trường nông sản Trung Quốc nhằm có những bước đi đúng đắn trong việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường rộng lớn này.
Trân trọng cảm ơn ông!./.
Bùi Thủy/ dangcongsan.vn
Không có nhận xét nào: