Theo nghiên cứu của TS. Bùi Huy Phùng, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Năng lượng Việt Nam, lý do chính dẫn đến việc người dân, DN bị thiệt hại do thiếu điện nhiều năm qua không nằm ở chỗ thiếu vốn dài hạn, mà ở việc phân bổ vốn đầu tư không cân đối giữa các dự án đầu tư nguồn điện và các dự án xây dựng lưới điện.
20.000 ha nuôi tôm thiếu điện
Do không có đường dây và trạm biến áp riêng phục vụ nuôi tôm, người dân nhiều địa phương khu vực ĐBSCL đang phải dùng nguồn điện sinh hoạt để chạy máy sục khí. Quy mô sử dụng công nghiệp, nhưng nguồn điện chỉ tính toán cho mục đích tiêu dùng khiến tình trạng thiếu điện cho nuôi tôm công nghiệp ở một số tỉnh như Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh diễn ra phổ biến.
Lưới điện quá tải, năng lực truyền tải không theo kịp nguồn và nhu cầu tiêu thụ
Ghi nhận của TBNH, hiện chi phí đầu tư ban đầu cho việc lắp biến áp để nuôi 1 ha nuôi tôm thẻ chân trắng là 130 triệu đồng, chưa kể phải sắm thêm 1 máy phát điện dự phòng khoảng hơn 40 triệu đồng nữa. Với mức chi phí này, những hộ chuyển sang nuôi tôm nhưng thiếu vốn thì việc tự đầu tư lắp biến áp là không thể. Vì vậy, các hộ dân cứ tiến hành đào ao thả nuôi rồi sử dụng điện sinh hoạt để chạy mô-tơ.
Song song đó, nhằm tiết kiệm tiền mua dây điện, các hộ nuôi tôm thường chỉ kéo 1 dây nóng ra ao, còn dây mát thì được thay thế bằng cọc kim loại đóng xuống đất hoặc thả thẳng xuống ao nuôi. Việc làm này cực kỳ nguy hiểm nếu xảy ra cháy, chập điện. Tuy nhiên, cách làm này vẫn đang phổ biến ở nhiều địa phương.
Theo tính toán của các hộ, trung bình cứ 3.000 m2 mặt nước nuôi tôm thẻ thì cần bố trí 4 mô-tơ công suất 2 mã lực, vận hành liên tục từ 18-20 giờ/ngày. Theo đó, mỗi khu vực nuôi tôm rộng từ 50-70 ha thì cần khoảng 10 bình hạ thế loại 15 KVA. Tuy nhiên, ngành điện ở các địa phương nói trên chưa đầu tư được các trạm biến áp. Kết quả là tại Sóc Trăng, trong năm 2013 đã có hơn 200 trạm hạ thế điện bị quá tải, trong khi đó con số này ở tỉnh Cà Mau là 500 trạm. Tình trạng cúp điện liên tục khiến “tắc thở” nhiều đầm tôm, gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.
Thống kê của ngành nông nghiệp cho thấy, trong năm 2014, do giá tôm tăng cao nên nông dân ở ĐBSCL đã không ngừng mở rộng diện tích nuôi. Từ đầu năm đến nay, Cà Mau đã tăng hơn 1.400 ha nuôi tôm công nghiệp. Trong khi đó tại Sóc Trăng, Trà Vinh và Bạc Liêu, người dân cũng phát triển thêm hàng ngàn ha nữa. Với đà phát triển mạnh như vậy, dự báo sẽ có khoảng 20.000 ha diện tích nuôi tôm nước lợ ở các tỉnh ven biển ĐBSCL bị ảnh hưởng do thiếu điện trong năm nay. Nếu tính trên mức chi phí nuôi tôm thẻ trung bình hiện khoảng 250-260 triệu đồng/ha/vụ (1 năm 3 vụ) thì khi tôm chết trên diện rộng do thiếu điện, con số thiệt hại sẽ cực kỳ lớn.
Lý giải về tình trạng thiếu điện cho sinh hoạt, sản xuất nói chung và cho sản xuất nông nghiệp nói riêng, ngành điện lực nhiều năm qua đổ dồn cho lý do thiếu vốn. Đại diện EVN cho rằng, từ trước đến nay kênh vốn của EVN bao gồm nguồn vốn vay ODA do Chính phủ cho vay lại, vốn vay từ các đối tác phát triển của Việt Nam, vốn vay thương mại từ các TCTD trong và ngoài nước… Tuy nhiên, trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, việc tiếp cận các nguồn vốn này bị hạn chế.
Cụ thể, đối với các dự án điện do EVN đầu tư, các TCTD trong nước không đơn phương đáp ứng được vì tổng mức đầu tư vượt quá hạn mức tín dụng đối với 1 khách hàng. Trong khi đó, đối với nguồn vốn từ nước ngoài thì giá trị các khoản vay ODA bị hạn chế theo chương trình của nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam. Thêm vào đó, việc sử dụng vốn tự tích luỹ của EVN hàng năm rất ít, vì lợi nhuận không nhiều, thường xuyên bị lỗ nên EVN không đủ vốn để làm đối ứng (25%-30%) theo yêu cầu của các tổ chức cho vay.
Trong khi đó, theo ước tính của Hiệp hội năng lượng Việt Nam, hiện nay tổng nhu cầu vốn đầu tư cho toàn ngành điện giai đoạn 2011-2030 là khoảng 123,8 tỷ USD, tương đương 2.359 nghìn tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2011-2020 là 48,8 tỷ USD và giai đoạn 2021-2030 là 75 tỷ USD. Như vậy, nhu cầu vốn đầu tư cần huy động giai đoạn 2010-2025 cho các dự án điện, trung bình sẽ không dưới 5-6 tỷ USD/năm, một con số vô cùng lớn đối với nền kinh tế.
Hơn 30 năm “lưới 1, nguồn 3”
Câu chuyện thiếu vốn cho các dự án sản xuất, cung ứng điện như vậy là khá rõ ràng và có thật trong thực tiễn. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của TS. Bùi Huy Phùng, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Năng lượng Việt Nam, lý do chính dẫn đến việc người dân, DN bị thiệt hại do thiếu điện nhiều năm qua không nằm ở chỗ thiếu vốn dài hạn, mà ở việc phân bổ vốn đầu tư không cân đối giữa các dự án đầu tư nguồn điện và các dự án xây dựng lưới điện.
Phân tích dữ liệu từ năm 1980, TS. Phùng chỉ ra rằng, trong giai đoạn 1980-1990, tỷ lệ đầu tư lưới điện của Việt Nam chỉ ở mức 15-20% tổng đầu tư điện lực. Giai đoạn 2005-2009, tỷ lệ này khoảng 22-31,5%. Ngay cả trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 (quy hoạch điện VII) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì tỷ lệ vốn đầu tư cho lưới điện cũng chỉ chiếm dưới 30%. Trong khi đó, theo tính toán của TS. Phùng, tỷ lệ này phải ở mức 45-50% thì mới đảm bảo hạn chế được tình trạng ách tắc, khó khăn trong truyền tải phân phối điện.
Trong khi đó, theo số liệu của BIDV, hiện dư nợ đối với ngành điện tại ngân hàng này vào khoảng 25.000 tỷ đồng, trong đó tập trung chủ yếu vào các dự án thuỷ điện (trên 20.000 tỷ đồng), các dự án nhiệt điện (khoảng 2.000 tỷ đồng). Trong khi đó VietinBank cũng đã đầu tư và cam kết đầu tư trên 60.000 tỷ đồng, xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, công trình lưới điện và trạm biến áp…
TS. Phùng cho rằng, hiện nay lưới điện Việt Nam đang bị quá tải và xuống cấp, thực trạng năng lực truyền tải đang không theo kịp nguồn, nếu không nhanh chóng nâng cấp, cải tạo và tăng cường đầu tư cho lưới điện thì nguy cơ quá tải ngày càng nghiêm trọng.
Đơn cử như tại Sóc Trăng, trong năm 2014 này, nhu cầu vốn đầu tư nâng cấp, cải tạo để phục vụ nuôi tôm nước lợ ở địa phương ước khoảng trên 85 tỷ đồng, bao gồm cải tạo 95 km đường dây trung thế, gần 343 km đường dây hạ thế, 138 trạm biến áp để phục vụ cho hơn 7.100 ha diện tích nuôi tôm. Nếu ngành điện không giải quyết được nguồn vốn này thì nguy cơ mất điện, thiếu điện cục bộ trong khi nguồn điện không thiếu là rất lớn. Thậm chí, khi mất điện ở một số khu vực do sự cố đường truyền, trạm biến áp sẽ không thể nhanh chóng đóng điện trở lại. Hậu quả là nền kinh tế địa phương sẽ bị thiệt hại nặng nề.
Như vậy, trong khi chờ những giải pháp cung ứng nguồn vốn tốt nhất cho các dự án điện thì việc rà soát nhu cầu điện, tính toán chi tiết tỷ lệ nguồn vốn đầu tư cho phát triển nguồn điện và lưới điện, đồng thời loại khỏi quy hoạch các dự án hiệu quả kinh tế thấp là những việc cần thiết phải làm ngay để tăng hiệu quả đồng vốn và giảm thiểu những thiệt hại cho xã hội do thiếu điện gây ra.
Ưu tiên vốn cho đa dạng dự án điện
Theo các NHTM, trong thời gian tới, các dự án của ngành điện sẽ vẫn là những điểm sáng được ưu tiên đầu tư vốn. Tuy nhiên, để tháo gỡ các khó khăn trong việc huy động vốn, Bộ Công Thương cần rà soát, đánh giá lại quy hoạch điện, cân đối tiến độ đầu tư của dự án đảm bảo an toàn với môi trường xã hội, đời sống nhân dân, phù hợp với năng lực tài chính và khả năng triển khai của doanh nghiệp; tránh đầu tư dàn trải, dừng các dự án công trình điện không hiệu quả.
Vụ Tín dụng (NHNN) cho rằng, trong thời gian tới sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp, tháo gỡ các khó khăn trong việc cho vay của các ngân hàng đối với các dự án ngành điện. Ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục đồng hành thu xếp vốn cho các dự án điện trong tất cả các khâu từ sản xuất, truyền tải và phân phối điện, đặc biệt là các dự án điện cấp bách, quan trọng quốc gia, các dự án sử dụng nguồn năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời...
Thạch Bình/ Thời báo ngân hàng
Không có nhận xét nào: